Phân biệt vi khuẩn, vi rút và động vật nguyên sinh
Vi khuẩn, vi rút hay động vật nguyên sinh đều một phần của họ của vi khuẩn lớn. Vi khuẩn là sinh vật có cấu trúc tế bào đơn giản, vi rút là vi khuẩn cần vật chủ để tồn tại và động vật nguyên sinh là động vật đơn bào. Bài viết tập trung giúp bạn phân biệt giữa vi khuẩn, vi rút và động vật nguyên sinh.
Vi khuẩn là gì
Vi khuẩn là sinh vật nhân sơ -tế bào nhỏ nhất, đơn giản nhất và cổ xưa nhất, với vật liệu di truyền trôi nổi tự do. Chúng thường được tạo thành từ một vòng DNA duy nhất nằm ở trung tâm điều khiển của chúng. Có thể xảy ra trường hợp một số vi khuẩn có thêm vật liệu di truyền. Vật liệu bổ sung này được gọi là plasmid, có thể đóng vai trò là vòng DNA cho phép vi khuẩn phát triển khả năng kháng một loại kháng sinh nhất định. Trong vi sinh học, plasmid là phân tử DNA khác biệt với DNA nhiễm sắc thể của một sinh vật và có khả năng sinh sản độc lập.
Vi khuẩn có mặt ở khắp mọi nơi, vi khuẩn còn có khả năng tồn tại dưới dạng tế bào đơn lẻ, theo cặp, chuỗi hoặc cụm. Vi khuẩn được chia thành 5 họ chính: Cầu khuẩn (hình cầu), trực khuẩn (hình que), xoắn khuẩn (hình xoắn ốc), vibrio (dấu phẩy) và xoắn khuẩn (hình xoắn ốc).
Có 2 loại vi khuẩn: Gram âm và Gram dương. Sự khác biệt chính giữa 2 loại này là sự hiện diện của một lớp màng ngoài bổ sung ở vi khuẩn Gram âm. Về cơ bản đây là một lớp phòng thủ bổ sung khiến kháng sinh khó xâm nhập hơn, do đó vi khuẩn Gram âm khó tiêu diệt hơn và dễ phát triển khả năng kháng thuốc hơn.
Vi khuẩn có nhiều trong đất, trong nước, trong môi trường và trong cơ thể người. Trong cơ thể người, vi khuẩn cư trú trong hệ thống tiêu hóa, trên da và góp phần vào quá trình chuyển hóa năng lượng, tiêu hóa, chức năng não và sức khỏe nói chung. Nếu sự cân bằng này bị phá vỡ do một liều thuốc kháng sinh hoặc tình trạng sức khỏe kém thì tình trạng khó chịu ở đường ruột và nhiễm trùng da là phổ biến.
Vi khuẩn sinh sản chủ yếu bằng cách nhân đôi – sao chép DNA của chúng để chúng có 2 bản sao ở 2 bên đối diện của tế bào, sau đó phát triển thành một tế bào mới ở giữa để tạo ra 2 tế bào con. Thời gian nhân đôi này mất từ 20 phút đến 1 giờ. Khoảng thời gian thế hệ ngắn này cho phép các đột biến xuất hiện và tích tụ nhanh chóng gây ra những thay đổi đáng kể ở vi khuẩn chẳng hạn như khả năng kháng thuốc kháng sinh.
Vi khuẩn có thể giao tiếp với nhau bằng cách giải phóng các phân tử tín hiệu hóa học cho phép quần thể hoạt động như một sinh vật đa bào. Tùy thuộc vào mật độ phân tử và tín hiệu mà nó tạo ra, quần thể vi khuẩn có thể thích nghi và phản ứng để cạnh tranh tài nguyên trong một quá trình gọi là cảm biến số lượng. Khả năng giao tiếp với nhau này cho phép vi khuẩn phối hợp biểu hiện gen và do đó là hành vi của toàn bộ cộng đồng. Quá trình cung cấp cho vi khuẩn một số đặc tính của sinh vật bậc cao và là vũ khí mạnh mẽ chống lại kháng sinh. Nó có thể kích hoạt một số vi khuẩn ngừng hoạt động và trở nên không hoạt động khi tiếp xúc với kháng sinh và chúng có thể tái sinh khi kháng sinh hết tác dụng.
Vi khuẩn thường tìm thấy trong nước là vi khuẩn coliform và E.coli. Đây là sinh vật chỉ thị cho thấy có ô nhiễm phân trong nước và cần được kiểm tra xử lý.
Vi rút là gì
Vi rút là tập các loại phân tử khác nhau bao gồm vật liệu di truyền (AND hoặc RNA mạch đơn hoặc mạch kép) với lớp vỏ protein và đôi khi có thêm một lớp chất béo (lớp màng). Vi rút có thể có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau – hình dạng tàu vũ trụ, hình xoắn ốc, hình trụ và hình quả bóng. Các loại vi rút được bao bọc bởi một lớp mỡ ( như SARS-CoV- 2 gây ra COVID-19) có thể dễ dàng bị tiêu hơn chỉ bằng cách rửa tay đơn giản và xà phòng phá vỡ lớp mỡ này.
Vi rút không thể tự sinh sản (không giống như vi khuẩn) nên chúng không được coi là sống nhưng có thể tồn tại trên bề mặt trong một khoảng thời gian khác nhau. Vi rút cần phải xâm nhập vào một tế bào sống ( như tế bào người) để có thể sinh sản và một khi đã vào bên trong chúng sẽ chiếm lấy toàn bộ bộ máy tế bào và buộc tế bào phải tạo ra vi rút mới.
Vi rút gây ra các bệnh cúm, vi rút herpes, Ebola, Zika và cảm lạnh thông thường.
Vi rút có thể khá chọn lọc về nơi chúng sống và sinh sản, nhiều loại vi rút thậm chí không lây nhiễm cho con người. Một số loại vi rút chỉ lây nhiễm cho vi khuẩn, một số chỉ lây nhiễm cho thực vật và nhiều loại chỉ lây nhiễm cho động vật. Tuy nhiên một loại vi rút có thể tiến hóa để lây sang con người. Điều này thường xảy ra với bệnh cúm: Ví dụ cúm gia cầm hoặc cúm lớn có nguồn gốc từ chim và lợn và lây nhiễm sang người.
Vòng đời của một loại vi rút có thể được chia thành các giai đoạn sau: xâm nhập vào tế bào vật chủ, sao chép bộ gien vi rút, sản xuất protein vi rút mới, lắp ráp các protein vi rút đó thành vi rút mới và sau đó giải phóng khỏi tế bào vật chủ (bằng cách tiêu diệt tế bào hoặc chảy chồi khỏi màng tế bào vật chủ) để sẵn sàng lây nhiễm vào các tế bào mới.
Như vậy vi rút chỉ sống để sinh sản và khả năng thông qua sự xâm nhập của các tế bào sống. Khi vi rút xâm nhập vào 1 tế bào, nó sẽ nhân lên thông qua tế bào đó. Vì vi rút sống bên trong tế bào của vật chủ nên rất khó để điều trị chúng bằng thuốc. Đây là lý do tại sao hệ thống miễn dịch phải được đào tạo để đối phó với vi rút. Đây là lý do tại sao vắc-xin được tạo ra.
Động vật nguyên sinh là gì
Động vật nguyên sinh là sinh vật nhân chuẩn đơn bào, chúng không có thành tế bào như động vật, đôi khi được gọi là động vật một tế bào. Động vật nguyên sinh là động vật dị dưỡng, sống tự do hoặc ký sinh và gây ra nhiều bệnh khác nhau ở người.
Một số đặc điểm của động vật nguyên sinh: Là sinh vật nhân chuẩn đơn bào, kích thước dao động từ 1 µm đến vài mm, là loại dị dưỡng, có biểu hiện quá trình thực bào và ẩm bào. Động vật nguyên sinh có nhiều cơ quan để di chuyển như roi, chân giả và lông mao. Dựa trên cơ quan vận động, chúng được phân loại thành ngành Trùng roi hay Mastigophora, ngành Trùng amip hay Sarcodina (có chân giả), ngành Trùng bào tử (sinh sản bào tử và không có có quan vận động), ngành Trùng lông hay Ciliopora. Chúng sinh sản bằng cả phương pháp vô tính và hữu tính.
Đông vật nguyên sinh gây ra một số bệnh thường gặp ở người như bệnh ngủ Châu Phi, sốt rét, Bệnh Leishmaniasis, bệnh amip, bệnh chagas, bệnh toxoplasma.